Cảnh giác với những thủ đoạn xuyên tạc quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam
Trong chiến lược chống phá Việt Nam hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước tập trung vào chống phá Đảng, chế độ và hệ tư tưởng. Trong đó, tự do ngôn luận, báo chí đang là một mục tiêu xuyên tạc, bôi nhọ của chúng. Gần đây, nhiều hãng thông tấn, báo chí nước ngoài và không ít trang web trong và ngoài nước rêu rao rằng: ở Việt Nam “Không có tự do ngôn luận, tự do báo chí”; “Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo chí, tự do internet”. Họ cố tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp uy tín nước ta trên trường quốc tế.
Phải biết rằng, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin được xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ, nhưng không vì thể mà quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận hay tự do thông tin một cách tuyệt đối. Các quyền này không được cộng đồng quốc tế thừa nhận là quyền tuyệt đối. Điều 19 Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định: “Việc thực hiện quyền tự do ngôn luận có thể phải chịu một số hạn chế nhất định và những hạn chế này cần được quy định bởi pháp luật, nhằm: Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”. Hay tại Khoản 2, Điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 cũng đã nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”. Rõ ràng, trong một số trường hợp nhất định, tự do ngôn luận có thể xung đột với các giá trị hay quyền chính đáng khác. Như vậy, tuy được quốc tế công nhận nhưng quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí không phải là quyền tự do vô hạn. Dù trong bất kỳ xã hội nào nó cũng chỉ mang tính tương đối, phải tự do trong khuôn khổ của pháp luật và phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể ở mỗi thời kỳ nhất định. Không có quốc gia nào cho phép tự do báo chí, tự do ngôn luận đứng ngoài luật pháp và xâm hại đến an ninh quốc gia, xâm hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc. Mọi quyền tự do, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí đều phải có giới hạn nhất định.
Ảnh minh họa: nguồn internet
Thực tế cho thấy, các thế lực phản động, thù địch đã cố tình lờ đi thực tiễn chính trị - pháp lý trong quá trình thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở các quốc gia trên thế giới. Chúng nhấn mạnh, cường điệu quyền tự do một chiều mà lờ đi nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức cũng như các hậu quả xấu mà các hành vi đó gây ra cho xã hội. Chúng cố tình không đề cập quy định pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, về hướng dẫn thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách phù hợp. Đối với Đảng và Nhà nước Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, báo chí không chỉ là quyền cần phải bảo đảm mà còn là một động lực cho sự phát triển của xã hội. Tính đến năm 2023, Việt Nam có hơn 800 cơ quan báo chí; khoảng hơn 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động trong lĩnh vực báo chí; cả nước hiện có hơn 20.500 thẻ nhà báo đã được cấp (theo số liệu của Thông tấn xã Việt Nam). Cùng với đó, gần 40 hãng truyền thông quốc tế đã có mặt tại Việt Nam, trong đó có nhiều hãng lớn như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)… Các cơ quan truyền thông quốc tế như CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều dễ dàng đến được với công chúng Việt Nam thông qua nhiều nền tảng chính thức, chính quy, mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp…
Ngay khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 9/11/1946 đã hiến định tại Điều thứ 10: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam và tiếp tục được hiến định tại Điều 25 Hiến pháp năm 2013 (bản Hiến pháp mới nhất hiện nay): “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ngày càng được hiện diện trong thực tiễn cuộc sống, năm 2016, Quốc hội Việt Nam đã ban hành Luật Tiếp cận thông tin và Luật Báo chí. Trong đó, Điều 3 Luật Tiếp cận thông tin quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin”. Thêm nữa, Điều 11 Luật Báo chí năm 2016 quy định cụ thể về quyền tự do ngôn luận trên báo chí như sau: “Công dân được phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước…”. Đặc biệt, Điều 13 luật này nêu rõ: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình…; báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
Qua đây có thể dễ dàng nhận thấy, về mặt pháp lý, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam đã được quy định toàn diện, đầy đủ, với những nội dung cụ thể, dễ hiểu, dễ áp dụng, dễ thực hiện trong cuộc sống.
Ảnh minh họa: nguồn Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam
Hiện nay, Internet và mạng xã hội đã trở thành công cụ rất quen thuộc, là “một phần tất yếu” trong cuộc sống của mọi tổ chức và cá nhân, nhất là trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam nằm trong top 20 nước có số người sử dụng Internet cao nhất thế giới với 79,1% dân số sử dụng, cao hơn mức trung bình của thế giới là 57,6% (Theo báo cáo của Digital năm 2023). Người dân Việt Nam có thể dễ dàng đăng tải, chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống trên các nền tảng mạng xã hội. Phát triển song hành với Internet và mạng xã hội là phát triển Chính phủ điện tử, được Liên hợp quốc đánh giá liên tiếp từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đều tăng hạng. Hiện Việt Nam xếp thứ 46/193 quốc gia trên thế giới về chuyển đổi số. Những tiện ích của Internet nhanh chóng được ứng dụng trong thực tiễn, nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi tổ chức, cá nhân. Mỗi người dân Việt Nam ngày càng nhận thức đúng đắn về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, từ đó nêu cao ý thức trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội, vừa bảo đảm quyền tự do của mình không vượt quá khuôn khổ của pháp luật. Mọi luận điệu xuyên tạc quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của Việt Nam cần phải bị bác bỏ, lên án.